Home Hương Thanh Tiên Tử – Nữ Đầu Sư Lâm Hương Thanh

Hương Thanh Tiên Tử – Nữ Đầu Sư Lâm Hương Thanh

Hương Thanh Tiên Tử – Nữ Đầu Sư Lâm Hương Thanh

* Tiểu sử

– Nữ Đầu Sư Lâm Hương Thanh, là ái nữ Lâm Thị, thế danh Lâm Ngọc Thanh, sinh năm 1874 tại làng Trung Tín, quận Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long, nước Việt Nam.
– Ngài quy tiên ngày mùng 8 tháng 4 năm Đinh Sửu (1937) tại Vũng Liêm, Vĩnh Long, khi hành Đạo với chức phẩm Nữ Chánh Phối Sư tại Cửu Trùng Đài, Thánh Danh Lâm Hương Thanh.
– Ngài được sắc phong làm vị Nữ Đầu Sư đầu tiên của nền Cao Đài Đại Đạo vào ngày 25 tháng 4 năm Đinh Sửu bởi ngọc cơ của Đức Từ Phụ.
– Về cõi Thiên Giới thì ngài thường được gọi là Hương Thanh Tiên Tử, hay thân mật hơn thì một số chư Thiên hay gọi Ngài là Đại Tỷ. Vì đối với nền Cao Đài Đại Đạo, Ngài chính là vị Đại Tỷ của đoàn hậu bối, người có công nghiệp viên mãn, đại công đức trong cơ nghiệp gầy dựng và truyền bá nền Cao Đài Đại Đạo vậy.
– Đức Từ Phụ khai ngộ về căn duyên của Hương Thanh Tiên Tử cho toàn thể tín đồ Cao Đài rằng Ngài chính là Long Nữ thường theo thị giả cho Đức Quan Âm Bồ Tát.
– Thời kỳ Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Đức Quan Âm Bồ Tát giữ trọng trách là một trong ba vị Tam Trấn Oai Nghiêm đại diện cho khối đức tin Phật Giáo khi nhìn về một gốc cội nguồn chung là Cội Đạo của muôn sinh, vạn linh trong toàn thể Đại Vũ Trụ này. Vì thế mà Đức Quan Âm không được quyền chuyển sinh nhập thế đầu thai, thế nên Long Nữ tình nguyện nhập thế đầu thai để làm một người hoa tiêu trong việc giúp khai mở nền Đạo Cao Đài nơi nước Việt Nam vào năm 1926 vậy.
– Hiện tại trên mặt trước tòa tháp bên nữ phái ở Tòa Thánh Tây Ninh có đắp hình tượng Ngài Lâm Hương Thanh cầm giỏ hoa đứng trên mặt địa cầu, ý chỉ về việc Ngài đã đem hương hoa thơm đạo đức thiện lành gieo rưới khắp nơi trên mặt Địa Cầu này vậy.

* Căn duyên Long Nữ và công nghiệp đặc trưng của Ngài Lâm Hương Thanh

Nói về công nghiệp của vị Đại Tỷ này, có lẽ đó là một bề dày những gương sáng thiện hành, đức hi sinh vì đại nghiệp chẳng thể nghĩ bàn. Nhưng mà, ngoại trừ việc tâm đức viên mãn, thường xuyên thiết lập các buổi thuyết giảng để độ duyên cho muôn sinh thì tạm thời nhắc thêm về một việc đặc trưng đó chính là tấm lòng chân thành, chí tin và đức hi sinh của Ngài với cơ Đạo. Sản nghiệp bao nhiêu năm của gia tộc Ngài hiến về gần như trọn vẹn cho tịnh tài công quả trợ giúp việc mua đất, xây dựng đền thờ, nhà xưởng, trợ duyên cho bao nhiêu người tu tập.
Việc này có liên quan đến căn duyên Long Nữ của Ngài khi theo làm thị giả cho Đức Quan Âm Bồ Tát.
Trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Kinh có một đoạn miêu tả về vị Long Nữ như sau:

Ngài Văn Thù Sư Lợi nói:
“Ta ở biển chỉ thường tuyên nói Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.”

Ngài Trí Tích hỏi ngài Văn Thù Sư Lợi rằng:
“Kinh này rất sâu vi diệu, là báu trong các kinh, trong đời rất ít có, vậy có chúng sanh nào siêng năng tinh tấn tu hành kinh này mau đặng thành Phật chăng?

Ngài Văn Thù Sư Lợi nói:
“Có con gái của vua rồng Ta Kiệt La mới tám tuổi mà căn tánh lanh lẹ, có trí huệ, khéo biết các căn tánh hành nghiệp của chúng sanh. Đặng pháp tổng trì, các tạng pháp kín rất sâu của các Phật nói đều có thể thọ trì, sâu vào thiền định, rõ thấu các pháp. Trong khoảnh sát na phát tâm Bồ đề đặng bực bất thối chuyển, biện tài vô ngại, thương nhớ chúng sanh như con đỏ, công đức đầy đủ, lòng nghĩ miệng nói pháp nhiệm mầu rộng lớn, từ bi nhơn đức khiêm nhường, ý chí hòa nhã, nàng ấy có thể đến “Bồ Đề”.

Trí Tích Bồ Tát nói rằng:
“Tôi thấy đức Thích Ca Như Lai ở trong vô lượng kiếp làm những hạnh khổ khó làm, chứa nhiều công đức để cầu đạo Bồ Đề chưa từng có lúc thôi dứt.
Tôi xem trong cõi Tam Thiên Đại Thiên nhẫn đến không có chỗ nhỏ bằng hột cải, mà không phải là chỗ của Bồ Tát bỏ thân mạng để vì lợi ích chúng sanh, vậy sao mới đặng thành Đạo Bồ Đề.
Chẳng tin Long Nữ đó ở trong khoảng giây lát chứng thành bậc Chánh Giác”.

Nói luận chưa xong, lúc đó Long Nữ là ái nữ của Long Vương bỗng hiện ra nơi trước mặt lễ kính Phật rồi đứng một phía nói kệ khen rằng:

Thấu rõ tướng tội phước
Khắp soi cả mười phương
Pháp thân tịnh vi diệu
Đủ ba mươi hai tướng
Dùng tám mươi món tốt
Trời, người đều kính ngưỡng
Long thần thảy cung kính
Tất cả loài chúng sanh
Không ai chẳng tôn phụng
Lại nghe thành Bồ Đề
Chỉ Phật nên chứng biết
Bần nữ thuyết Đại Thừa
Độ chúng sanh thoát khổ.

Bấy giờ, Ngài Xá Lợi Phất nói với Long nữ rằng:
“Người nói không bao lâu chứng đặng Đạo vô thượng, việc đó khó tin.
Vì sao?
Vì thân nữ bất tịnh chẳng phải là pháp khí, thế nào có thể đặng thành vô thượng chánh giác?
Đạo Phật xa rộng phải trải qua vô lượng kiếp cần khổ chứa nhóm công hạnh, tu đủ các độ, vậy sau mới thành được. Lại thân nữ còn có năm điều chướng:
Một, chẳng đặng làm Phạm Thiên Vương,
Hai, chẳng đặng làm Đế Thích,
Ba, chẳng đặng làm Ma Vương,
Bốn, chẳng đặng làm Chuyển Luân Thánh Vương,
Năm, chẳng đặng làm Phật.
Thế nào thân nữ đặng mau thành Phật?”.

Lúc đó Long Nữ có một hạt Minh Châu, giá trị bằng cõi Tam Thiên Đại Thiên đem dâng lên Đức Phật, Phật liền nhận lấy. Long nữ nói với Trí Tích Bồ Tát cùng tôn giả Xá Lợi Phất rằng:
“Tôi hiến châu báu Đức Thế Tôn nạp thọ, việc đó có mau chăng?”

Họ đáp:
“Rất mau”.

Long Nữ nói:
“Lấy sức thần của các ông xem tôi thành Phật lại mau hơn việc đó.”

Đương lúc đó cả chúng hội đều thấy Long Nữ thoạt nhiên biến thành nam tử, đủ hạnh Bồ Tát, liền qua cõi Vô Cấu ở phương nam ngồi toà sen báu thành bậc Chánh Giác, đủ ba mươi hai tướng, tám mươi món đẹp, khắp vì tất cả chúng sanh trong mười phương mà diễn nói pháp màu.

Khi ấy trong cõi Ta bà hàng Bồ Tát, Thanh Văn, Thiên Long Bát Bộ, nhân cùng phi nhân đều xa thấy Long Nữ kia thành Phật, khắp vì hàng nhân Thiên trong hội đó mà nói Pháp, sanh lòng vui mừng đều xa kính lạy, vô lượng chúng sanh nghe Pháp tỏ ngộ đặng bậc Bất thối chuyển, vô lượng chúng sanh đặng lãnh lời thọ ký thành Phật, cõi Vô Cấu sáu diệu vang động, cõi Ta bà ba nghìn chúng sanh trụ bậc Bất thối, ba nghìn chúng sanh phát lòng Bồ Đề mà đặng lãnh lời thọ ký.

Trí Tích Bồ Tát và Ngài Xá Lợi Phất tất cả trong chúng hội yên lặng mà tin nhận đó.

Qua đoạn kinh văn nói về vị Long Nữ ấy, chúng ta có thể thấy được về việc chấp kiến cần giải phá. Thân nữ bất tịnh, hay là nữ hóa thân nam đều cũng là niệm khởi mà sinh thành trụ hoại diệt.
Ngài Long Nữ ấy, vì công đức vô lượng hỉ hiến vật trân quý nhất của mình mà còn được biết đến với tôn danh là Thiện Tài Long Nữ. Thế nên ở kiếp đầu thai nhập thế làm Lâm Ngọc Thanh, Ngài cũng đã hoan hỉ trong việc hi sinh trọn đời công quả tâm đức lẫn sản nghiệp của mình cho nền Đại Đạo vậy.

* Một số thi văn của Ngài Đầu Sư Lâm Hương Thanh và của chư vị khác viết thơ tặng Ngài. Mục này từ nguồn tư liệu từ kinh sách Cao Đài Đại Đạo.

– Thi tặng nữ phái của Ngài Lâm Hương Thanh khi đã về Thiên Cảnh:

Đạo tùng vận hội khá tầm phương,
Danh lợi Đạo sa ấy lẽ thường.
Kiên nhẫn noi gương mưu Phạm Lãi,
Phương tranh học lấy kế Trương Lương.
Ôn hòa lập chí gầy thân ái,
Nhơn nghĩa đổi trao dựng thái bường.
Mưa nắng dồi mài gan sắt đá,
Thu về thảo nguyện định phong cương.

– Một đoạn trong bài trường thi của Đức Từ Mẫu giáng dạy nói với Ngài Lâm Hương Thanh

Ơn nhờ có con là Long Nữ,
Đến thay thân Thiên Sứ Từ Hàng.
Đùm bọc em ráng bước một đàng,
Đặng cho mẹ dễ dàng cứu rỗi.

Kìa Cực Lạc Niết Bàn đem đổi,
Khối thân phàm làm mối dây oan.
Mẹ trông con vào cảnh an nhàn,
Ở trần thế muôn ngàn sầu thảm.

Cõi thiên vị cho con còn dám;
Chẳng dạy khuyên e phạm căn tu.
Chỉnh biết con chẳng rõ hiền ngu,
Đặng tự định công phu tròn phận.

Con thì đứa đường đời lẩn quẩn,
Con thì hay trở vận cơ mầu.
Máy huyền vi nào hiểu cao sâu,
Cứ đeo đẳng mạch sầu nguồn thảm.

Hương Thanh!

Con ví biết mình cao bực phẩm,
Phải lo toan cho dám phế đời.
Mấy em con phải để con ngươi,
Coi con bước mấy vời nối gót.

Lời cần yếu Mẹ than cho trót,
Muốn dạy con phải xét xa chừng.
Hãy hằng ngày ở dựa bên lưng,
Nhắc từ chuyện khuyên răn từ việc.

Cửu Nương vốn nhọc nhằn chẳng tiếc,
Chỉ tiếc cho chưa biết nhập trường.
Phải biết rằng lòng Mẹ hằng thương.
……..

– Ngài Chánh Phối Sư Lâm Hương Thanh Thuyết Đạo tại Thánh Thất Mỹ Ngãi (hay Mỹ Ngọc) Sa Đéc

Kính cùng chư Hiền huynh, chư Hiền tỷ, Hiền Đệ, Hiền muội,

Hôm nay Tôi có hạnh phúc tới đây, tiếp kiến quí vị, thiệt cơ hội may mắn vô cùng, đối với cuộc vui này Tôi chẳng biết lấy chi trò chuyện cho xứng đáng thạnh tình tri ngộ. Vậy Tôi đã thọ lãnh trách nhiệm hành Đạo thì cũng xin vô phép dùng Đạo mà luận đàm.

Đạo thể mênh-mông như Trời như biển, ngàn kinh muôn điển nói chẳng xiết cùng, mà cuộc hội diện của chúng ta ngày vui rất ngắn, thế thì không có thể nói cho cùng khắp đặng, nên Tôi xin tóm tắt đôi điều đại khái, nói muôn phần trong một hai.

Vì sao mà gọi rằng Đạo?

Đạo vẫn một khí không hình không ảnh, không tiếng không hơi, nói lớn ra thì trên trời dưới đất, bao la vũ trụ sơn hà, thấu đến ngoài Càn khôn thế giới, đều hiển nhiên Đạo thể lưu hình;nói nhỏ lại thì một sợi tóc, một mảy lông, người thì một hơi thở vô ra, loài cầm thú bò bay máy cựa đều y-nguy đạo lý. Đạo rất lớn, rất sâu, rất rộng mà cũng rất ròng, rất kín, rất nhiệm, rất mầu, không chỗ nào không đạo, không sự gì không đạo, mà cũng chẳng thất hình trạng Đạo ra thế nào. Có thể nói rằng: Ấy là một không-khí giữa trời đất, người đối với không khí đó chẳng biết gọi là chi nên phải chế ra chữ “Đạo” mà nói cho nhơn sanh dễ hiểu. Kinh có câu “Bất tri kỳ danh, cường danh viết Đạo”.

Luận về Thiên Đạo: thì ban ngày có mặt trời, ban đêm có mặt trăng và các vì Tinh tú: Sao Cơ chủ gió, sao Tất chủ mưa, sao Vân Hán nắng hạn đều có phần hành riêng.
Một năm chia làm 4 mùa:
Xuân thuộc Mộc bông hoa tươi tốt, Hạ thuộc Hoả nóng nực, Thu thuộc Kim mát mẻ, Đông thuộc Thuỷ lạnh lẽo. Mỗi năm mỗi tuần hoàn vận chuyển, cuối rốt rồi trở lại ban đầu, chớ Thiên Đạo không hề sai.

Luận về Địa Đạo: Núi thì cao, sông thì sâu, biển thì rộng, chỗ đất bằng thì nhơn dân ở, cây cỏ chen lấn, châm rễ sanh chồi, thú vật sâu bọ đào hang khoét lỗ trên mặt đất, tuy chia ra Đông, Tây, Nam, Bắc bốn phương, nhưng sản vật hình thể trên địa cầu này chỗ nào cũng in nhau như vậy, chớ Địa Đạo không hề dời đổi.

Phối hiệp với Trời đất là Người: thì Nhơn đạo rất có qui mô rõ rệt dễ hiểu, xem như làm Cha mẹ giữ dạ hiền lành, làm con giữ hiếu thảo, vợ chồng ăn ở thuận hoà, anh chị biết thương em trẻ, em trẻ biết kính anh chị. Ở với bậu bạn giữ câu tín thiệt, đối với bà con tông tộc giữ lòng tương ái, tương thân; gặp người trưởng tượng phải biết kỉnh nhường, thấy người nghèo hèn hoặc ngu dốt phải thương yêu dìu dắt. Đừng thấy người giàu sang mà dua nịnh, đừng thấy kẻ hèn hạ mà khinh khi. Trong gia đình thì ăn nói, đứng ngồi đều có lễ nghi phép tắc, thù tạc với nhơn tình thế tộc phải giữ lễ cẩn thận công bình. Đứng làm trai ra gánh vác trách nhiệm quốc dân phải giữ lòng chí chơn chí chánh, làm hạng thứ dân thì thuế sưu đóng đủ, đừng làm việc gì vi phạm luật pháp nước nhà. Phận làm gái thì cửa liễu phòng đào, màn the phủ kín, chữ tam tùng, câu Tứ đức gìn giữ vuông tròn.

Tam Tùng là:
Lúc nhỏ theo cha mẹ,
Lớn theo chồng,
Sau già lại theo con.

Tứ Đức là:
Tánh nết cho hiền lành,
Ăn nói đoan trang,
Việc làm cho khéo léo,
Dung nhan cho chỉnh đốn,
mấy điều đó chính là mảnh gương trong bạn khuê các quần thoa, cần yếu phải lau chùi cho sạch sẽ. Nói tóm lại: Trai thì lo tròn phận tu mi, gái thì giữ trọn chữ môn đình nội trợ ấy là Nhơn Đạo đó.

Nhơn đạo cho trọn vẹn thì mới có thể hy vọng sự tu-hành mà bước theo dấu chơn các Đấng thiêng liêng đời cổ tích. Bởi đường muốn đi cho xa thì phải có từ chỗ gần làm trước,cây muốn trèo tới ngọn phải từ dưới gốc làm đầu. Ấy là đẳng cấp của chúng ta học Đạo. Nếu trái lại, muốn xa cầu Phật đạo, Tiên Đạo, Thánh Đạo mà trước khi không lo chỉnh đốn Nhơn Đạo cho hoàn toàn, thì chẳng khác chi muốn lên chót đỉnh mà khi bước chơn không chịu lội qua gò trắng. Biển, muốn ra giữa vời đại hải, mà lúc xuống tàu không muốn xuống tới chỗ bến cầu, thì có lẽ chi?

Tu hành chẳng phải dâng hoa đảnh lễ, gõ mõ rung chuông là đủ, mà cũng không phải niệm kệ đọc kinh, ăn chay ăn lạt là rồi. Bởi vậy việc đó là cái sự chớ chưa phải cái lý. Cái lý với cái gốc vốn ở trong tâm người “Dục tu kỳ thân tiên chánh kỳ tâm” (Muốn tu cái thân thì phải chính cái tâm làm trước). Giữ toà lương tâm cho thanh tịnh, chánh đáng rồi sai khiến ra tứ chi, thân thể dò theo Đạo luật mà làm, sự tu không phải nội trong lúc tới chùa hay là đương lúc cúng kiến ăn chay. Phải cẩn thận dầu trong khi ngày thường ăn ở đối đãi với nhau, trong cuộc đời cũng phải cho nhớ rằng: thiện nam tín nữ thì mình phải liệu làm sao, giữ làm sao lời ăn tiếng nói, cử chỉ hành vi cho khỏi phải phụ một phần trách nhiệm, chứ nếu như đã thọ lãnh tiếng Nhập môn cầu Đạo mà còn tranh cạnh việc thị phi ác cảm bên trường đời, lửa tam bành nổi dậy rần rần, ma lục tặc hoành hành thất sá. Kinh cũng đọc, kệ cũng đọc, mà lời phàm tiếng tục cũng không chừa. Tiên cũng cầu, Phật cũng cầu mà tánh quỉ nết yêu cũng không bỏ. Ngoài so-se đeo mảnh gương Thiên Nhãn, lần chuỗi hột bồ đề mà trong lòng thì mối nghiệt dây oan vấn vương nơi trái tim lá phổi.

Vậy thì sự tu hành chính là một cuộc cầu danh giả dối, biết mấy đời cho thoát đặng bể khổ sông mê. Ôi! Ăn chay một tháng có mấy ngày còn bao nhiêu thì hại vật sát sanh không chừng đỗi. Kinh Sám hối đọc sơ qua chút ít, còn bao nhiêu thì vọng ngôn ác ngữ cả luôn năm, vậy rồi lâm vô vòng ác đạo trầm luân, lại thán oán rằng: Tôi có niệm kệ ăn chay sao không thấy Phật rước Tiên đưa, Thánh Thần hỉ xả?

Ôi! Thầy Mạnh có nói:
Dùng một chén mà chữa lửa cháy một xe thì sao cho được?

Vậy nên Tôi khuyên những người đã hiến thân hành Đạo thì phải dùng chữ chơn thật làm đầu. Đã nói rằng tu thì tu khẩu, tu tâm, tự thuỷ chí chung đúng đắn vào khuôn pháp Đạo. Dầu cho người ta không nghe thấy mà mình đối với lương tâm mình cũng phải giữ nhứt niệm tín thành. Câu đầu bài Kinh “Nhựt tụng” có dạy:

“Đạo gốc bởi lòng thành tín hiệp”

Thành là lòng không giả dối, Tín là không sai ngoa. Hiệp là không lìa tan chia rẻ. Xin phải dùng câu đó làm mảnh gương trong tỉnh kỷ, cây thước trì thân.

Nhưng ấy là luận sự tu và đối đãi với người đồng Đạo, chớ còn giao thiệp với người dị Đạo phải dùng tư cách thế nào, chớ ý Tôi tưởng thì cũng có Đạo nào là khác! Chỉ có Bàn môn tả đạo, quái thuật yêu phương thì đành là khác, chớ còn chánh Đạo thì không có thể khác đặng.

Nay Tôi nói Thích, Nho, Tiên Tam giáo:

Kinh Nhựt tụng nói rằng: “Một cội sanh ba nhánh in nhau”. Vì sao vậy? Bởi nguồn cội Đạo từ khi vô thỉ, trời đất chưa an ngôi, Đạo đã bao hàm trong khí Thái-cực và Vô cực. Sau Khí Thái cực phân Âm Dương, Thiên, Địa Nhơn, tam tài định vị, lần lần có các Đấng Đại Thiêng liêng xuất thế truyền Đạo dạy đời:
Đức Lão Tử, Đức Khổng Tử, Đức Thích Ca đều bởi cội gốc đó mà lập ra Đạo Tiên, Đạo Nho và Đạo Thích. Tuy mỗi nền Tôn giáo đều có danh hiệu riêng nhưng Tôn chỉ thì không hề khác.

Xem như:

Nho nói: Tồn tâm dưỡng tánh.
Tiên nói: Tu Tâm luyện tánh.
Thích nói: Minh tâm kiến tánh.
Thích nói: Từ bi.
Nho nói: Trung thứ.
Tiên nói: Cảm ứng.
Tiên nói: Bảo ngươn thủ nhất.
Thích nói: Vạn pháp qui nhứt.
Nho nói: Chấp trung quán nhứt.

Cứ đôi câu đại khái đó thì hiểu biết nghĩa lý nào có khác chi? Nên Đức Thể Hà Tiên có bài thi rằng:

Tam giáo nguyên lai nhứt lý đồng,
Hà tu phân biệt các Tây Đông.
Tam hoa, Tam bửu, Tam tài lý.
Ngũ đức, Ngũ hành, Ngũ giới trung.

Nghĩa là:
Tam giáo nguyên lai đồng một lẽ, không tất phân biệt khác nhau làm chi, xem như lời Tam hoa, tam bửu, tam tài. Ngũ đức, ngũ hành, ngũ giới đều dùng chữ Tam, chữ Nũ mà dạy đời. Vậy thì từ thuở xưa đã công nhận tam Giáo y nhau như một.

Gọi từ đời Thượng cổ sắp sau học giả chia dòng lập phái, riêng ngõ khác đường, rồi mới sanh bài báng nhau, nghịch lẫn nhau, theo Đạo này thì chê Đạo nọ là hoang đường, theo Đạo nọ thì nói đạo kia là bất chính. Người nào cũng xưng tụng Thầy mình là tối cao tối thượng, còn chỉ trích Tôn giáo khác là thấp hèn.

Ôi! Ấy vì Thế đạo chưa mở mang, đường tu còn rậm rạp nên mới có sự sai lầm mà đến nỗi đồng Đạo tương như vậy.

Ngày nay trên Thiên ân chiếu gương Huệ Nhãn, soi thấy những sự sai lầm… nên giáng Cơ bút khai Đại Đạo Tam Kỳ, qui nguyên Tam giáo Tiên, Nho, Thích thâu về một cửa. Đặt ra phái Thượng, phái Ngọc, phái Thái đối đãi cho vừa với lòng Tín ngưỡng của nhơn sanh. Trước chia đường nay hiệp lại một nhà, xưa tẻ bước nay đem về một nẻo, thiệt Cơ sắp đặt của Thầy mầu nhiệm biết là dường nào!

Chúng ta sanh gặp thời kỳ hữu hạnh này đáng nên vuốt mặt reo mừng, vỗ tay dung ruổi, mau chơn trổi bước lên đền Phổ Độ kỳ ba, dầu có gặp sự chi trắc trở chinh nghiêng cũng đừng đổi dời tâm chí. Bởi nghĩ rằng: chúng ta bấy lâu nay lặn lội cuộc đời, sông danh biển lợi, trường náo nhiệt đã nhiều phen phấn đấu, thế thời nợ trần gian chất chứa cũng nặng nề, nay kính nên mượn nước nhành dương rửa bớt bụi nhơ trần thế. Xem lại các vị Tăng sĩ và Ni-cô trong đời trước, xuất gia cầu Đạo, người tới chùa mà tu, kẻ lên non mà ở. Cảnh tượng rất là khổ não âu sầu, mà người ta còn kiên tâm nhẫn nại. Huống chi nay cửa trời cao mở, đường tu hành rộng rãi thinh thinh. Thầy trao con thuyền Bác Nhã cho chúng ta chèo, Thầy đưa cây đuốc Thie6g liêng cho chúng ta nắm, đường nhập Đạo dễ dàng hơn lúc trước biết là bao nhiêu.

Nếu đương thời kỳ này mà chúng ta để chậm chân trễ bước, thỏn mỏn dần dà, thì mất một cơ hội rất nên quá uổng. Một ngày kia bóng quang âm thấm thoát, tuổi chẳng chờ ta, chừng đó dầu hối hận ăn năn vẫn đã lỡ làng nấc bước. Vậy thì tốt hơn là mai đây hồi đầu giác ngộ, tỉnh lại hồn say, tu càng dày thì Đạo thêm vững chắc.

May thay! Hột giống Phước-Thiện càng ngày càng nứt, càng nở càng tốt, càng tươi, càng đơm bông kết trái để nhờ cậy trong cuộc diện tương lai. Tôi rất lấy làm chúc mừng vô hạn.

Tiện đây Tôi xin cung vịnh bài thi “Thủ vĩ ngâm” kính đề chữ Đạo.

Đạo nguyên một gốc nảy sanh ra,
Đạo mở kỳ này ấy thứ ba.
Đạo giáo rộng quyền do bút Thánh,
Đạo căn vun đắp tự lòng ta.
Đạo lo trổi bước lên đường Chánh,
Đạo chớ lầm chơn tới nẻo tà.
Đạo Lão, Đạo Nho và Đạo Phật,
Đạo nguyên một gốc nảy sanh ra.

Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát.

Lâm Hương Thanh
………………………….

Nguồn: Tam Giới Toàn Thư

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *