Home Nhật Ô – Tam Túc Kim Ô

Nhật Ô – Tam Túc Kim Ô

Nhật Ô – Tam Túc Kim Ô

* Nguồn gốc

– Là Linh Điểu xuất hiện từ ánh sáng vi diệu của Thái Dương thuở khai thiên lập địa.

– Là một chủng loài thuộc Linh Điểu Bộ.
Có những tính chất liên quan mật thiết với Phụng Hoàng Tộc và Kim Sí Điểu Garuda.

– Những người, vật nào có nguyện vọng trở thành sứ giả của Nhật Thiên Tử, đem ánh sáng minh triết soi đường dẫn lối cho chúng sinh đang u mê được nhìn thấy đường giải thoát, gieo niềm tin và hy vọng cho họ về một đời an lạc. Khi chết đi, anh linh ấy có thể hóa thành Tam Túc Ô.

* Hình dạng và tính chất đặc trưng

– Tam Túc Ô có hình dáng con chim Quạ đen ba chân. Toàn thân phát ánh sáng kim quang, giúp dẫn đường cho người bị lạc trong hang tối, rừng sâu, núi thẳm. Do vậy nên còn được gọi là Tam Túc Kim Ô, Kim Ô hay Xích Ô.

– Tam Túc Ô có đôi mắt đỏ, sáng rực như ánh sáng mặt trời. Đôi mắt ấy có thể chiếu sáng lúc trời chạng vạng tối. Lại có thể nhìn thấu suốt được lẽ phải trái, đúng sai, thật giả các sự trước mắt mình. Đôi mắt này còn được gọi là Thông Tuệ Nhãn.

– Tam Túc Ô là biểu tượng của Nhật Thiên Tử, Thái Dương Đế Quân. Ngoài ý nghĩa tượng trưng cho ánh sáng mặt trời bất diệt, Tam Túc Ô còn mang ý nghĩa ánh sáng minh triết soi đường dẫn lối cho những ai đang đang u mê, lạc lối.

– Nơi nào có Tam Túc Ô xuất hiện thì nơi đó có ánh sáng của niềm tin, hy vọng và hơi ấm của tình yêu thương. Do vậy, trong dân gian người ta tin rằng Tam Túc Ô chính là sứ giả của các vị Thần, giúp soi đường dẫn lối cho người ta thoát khỏi cảnh u mê, tối tăm, lạc lối.

– Tam Túc Ô cư trú ở những vùng núi cao, thông thoáng sao cho ánh mặt trời đầu tiên dễ dàng soi rọi nơi Tam Túc Ô an trú.

o Tam Túc Ô khi mang thân xác hữu vi

– Là loài Linh Điểu rất hiếm khi xuất hiện.
Mỗi khu vực rộng lớn chỉ có một cá thể.
Được tín ngưỡng như một vị Chánh Thần, vì là sứ giả, hiện thân của Nhật Thiên Tử nơi thế gian.

– Là loài linh điểu thích ăn những trái cây, quả dại có màu đỏ, vị ngọt và cay nồng.

– Mỗi khi Tam Túc Ô đi ngủ lúc trời chập tối chẳng còn chút ánh nắng nào, toàn thân sẽ hóa thành pho tượng đá bất động. Chỉ khi ánh bình minh soi rọi ngày mới, lúc ấy Tam Túc Ô sẽ thức tỉnh, sống động lại như thường.

– Khi thân xác bị hủy hoại, chỉ cần có ánh sáng mặt trời chiếu rọi vào nơi thân xác ấy bị tiêu hủy, liền có một Tam Túc Ô tái sinh tại nơi ấy.
Từ tính chất này, nhiều người đồng hóa Tam Túc Kim Ô với linh điểu Phụng Hoàng, xem Tam Túc Kim Ô như là một chủng loài Phụng Hoàng ba chân. Sinh rồi diệt, diệt rồi lại tái sinh, cứ như vậy luân chuyển mãi. Cho nên biểu tượng Tam Túc Ô và Phụng Hoàng được thể hiện rất giống nhau, chỉ khác ở chỗ Tam Túc Kim Ô có ba chân mà thôi.

o Ý nghĩa của Tam Túc đối với Đạo Lý

Tam Túc vừa có nghĩa là ba cái chân, lại có nghĩa là ba thứ đủ đầy. Ba thứ đủ đầy này gồm:

– Túc Mạng là hiểu biết đủ đầy được lẽ đúng sai, thiện ác, thực hư ở đời này. Có thể quán chiếu, rõ biết được căn duyên đời trước và đời sau có liên hệ với hiện tại.

– Túc Thực là biết no đủ, chẳng sợ đói khổ mà nảy sinh tham dục, vọng cầu ăn uống.

– Túc Y là biết mặc đủ, chẳng sợ thiếu rách, bần cùng, chẳng sợ không có nơi nhà cửa nương tựa.
Đó là ba thứ rất quan trọng của đời người.
Người biết được chuyện đúng sai, sống hợp lẽ Đạo, không tham dục mưu cầu những của ngon vật lạ mỹ vị mà gây nên ác nghiệp, lại biết đủ chẳng tham cầu danh lợi, tránh được sân si tranh giành địa vị, quyền lợi nơi cõi tạm. Người biết đủ sẽ chẳng thiếu, người sợ thiếu sẽ mãi thiếu hoài.

Vì thế, Tam Túc Ô xuất hiện trong thư tịch cổ xưa từ Nho Giáo đến Đạo Gia hay Phật Môn đều với ý nghĩa nhắc nhở, dẫn đường chỉ lối cho con người sống bớt tham dục, biết đủ các nhu cầu cuộc sống ở mức thấp nhất có thể, tự nhiên sẽ được an lạc, sống đời Cực Lạc tại nơi thế gian hữu tình này.

o Kim Ô trong thi văn Nhật Bản

– Trong tập Hoài Phong Tảo, một quyển cổ thi Hán Tự của Nhật Bản, Đại Tân Hoàng Tử có viết một bài thơ Ngũ Ngôn tựa là Lâm Chung

Kim Ô lâm tây xá 
Cổ thanh thôi đoản mệnh 
Tuyền lộ vô tân chủ 
Thử tịch thùy gia hướng

Tạm dịch thơ:

Kim Ô ở nhà Tây
Trống nhắc mạng ngắn thay
Hoàng Tuyền chẳng chủ khách
Về đâu khi hết ngày

Dịch nghĩa:
Quạ vàng đậu ở nhà Tây
Nghe thấy tiếng trống canh dồn như nhắc nhở đời người ngắn lắm vậy
Nơi suối vàng chẳng có ai là chủ và khách cả
Hết ngày biết về nơi đâu

o Kim Ô trong thi ca, thành ngữ thời nhà Đường

Kim Ô hải để sơ phi lai
Chu huy tán xạ thanh hà khai
Thi Nhân Hàn Dũ

Dịch nghĩa:
Quạ vàng (mặt trời) bay từ đáy biển lên
Phát tán ánh sáng đỏ, bình minh rực rỡ.
……………..

Ô phi Thố tẩu – Hàn Tông

Quạ bay thỏ chạy. Kim Ô chỉ mặt trời, tượng trưng cho ngày. Ngọc Thố chỉ về mặt trăng, tượng trưng cho tháng. Cả câu ý nói ngày tháng thoi đưa, nhanh vùn vụt như quạ bay thỏ chạy.
……….

Thiên Địa điều điều tự trường cửu
Bạch Thố Xích Ô tương sấn tẩu
Thánh Thi Bạch Cư Dị

Dịch nghĩa:
Trời Đất điều hòa, vốn dĩ đã trường tồn vĩnh cửu
Ngày tháng (Thỏ trắng quạ đỏ) nương nhau chạy vụt đi.

* Phương thức cảm ứng

– Người có niềm tin mãnh liệt vào vị Thần Mặt Trời, Nhật Thiên Tử, khi hữu sự đi lạc nơi rừng sâu, núi thẳm, họ để tâm cầu nguyện được dẫn đường chỉ lối. Lúc bấy giờ Tam Túc Ô sẽ xuất hiện chỉ cho họ lối ra.

– Những lúc bị hỗn loạn, lạc lối trong các sự lựa chọn giữa cuộc đời. Người có đức tin vào vị Nhật Thiên Tử thường thiết lễ nơi đài cao hướng về phía mặt trời mọc lúc hừng đông, rồi cầu nguyện mong nhận được một sự chỉ đường dẫn lối. Lúc ấy từ trong tâm thức họ sẽ được khai sáng để giải quyết các sự hỗn loạn rối ren đan vướng mắc.

– Người được Tam Túc Ô bảo hộ sẽ cảm ứng được nguồn năng lượng mạnh mẽ tuôn chảy trong thân tâm của mình, đó là sức mạnh của ánh sáng minh triết, sự dũng cảm và niềm tin mãnh liệt vào chân lý. Người như thế, lại có được cuộc sống vô ưu, vô tư, bởi họ đã biết được ba điều đủ đầy giữa đời giả tạm và thực hành lối sống tích cực ấy.

Nguồn: Tam Giới Toàn Thư

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *